Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội được thành lập tháng 6 năm 1996,
do Giáo sư Trần Phương (Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, nguyên Ủy viên Trung
ương ĐCSVN (Khóa IV và V), nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) làm Hiệu trưởng.
Trường đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (nhân kỷ niệm 10
thành lập) và Huân chương Lao động hạng Nhì (nhân kỷ niệm 15 thành lập).
Trường là một tổ chức hợp tác của những người lao động trí óc, tự nguyện góp sức, góp
vốn để xây dựng và phát triển Trường bền vững, vì mục đích đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, không vì mục đích lợi nhuận.
Trường xác định sứ mệnh của mình là đào tạo các nhà kinh tế thực hành và các nhà kỹ
thuật thực hành, tạo nguồn nhân lực cho việc hình thành một dàn cán bộ chủ chốt của các
doanh nghiệp - những “binh đoàn chủ lực” trên mặt trận phát triển kinh tế xã hội theo
hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trường lấy đào tạo nghề nghiệp - thực hành làm định hướng chủ yếu, không chỉ quan tâm
trau dồi kiến thức, mà trau dồi kiến thức phải đi đôi với rèn luyện kỹ năng thực hành, phát
triển tư duy tìm tòi sáng tạo, kết hợp lý luận với thực tiễn; không chỉ quan tâm phát triển
tài năng, mà phát triển tài năng phải đi đôi với bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhằm đào tạo
thanh niên thành những cán bộ vừa hồng vừa chuyên.
Qua 19 năm hoạt động, Trường đã tiếp nhận 95.000 sinh viên, trong số đó, đã "cho ra
lò" 46.000 Cử nhân, Kỹ sư, Kiến trúc sư và 700 Thạc sỹ. Hầu hết đều nhận được việc
làm ngay sau khi ra trường, với mức lương tương đối cao.
Đội ngũ giảng dạy của Trường gồm 1124 giảng viên cơ hữu, trong số đó, 130 có trình
độ Tiến sĩ, Phó Giáo sư, và Giáo sư, 320 có trình độ Thạc sĩ, phần còn lại là Cử nhân,
Kỹ sư.
Ngoài giảng viên cơ hữu, Trường còn nhận được sự cộng tác của 300 giảng viên thỉnh
giảng.
Trường được trang bị 4.000 máy vi tính nối mạng Internet, bảo đảm cho mỗi sinh viên một
máy khi học và thực hành.
Khối lượng kiến thức của Chương trình đào tạo tương đối “nặng” so với các trường khác:
1. Đại học: 160 Tín chỉ so với 140 Tín chỉ
2. Cao đẳng: 120 Tín chỉ so với 100 Tín chỉ
Khối lượng kiến thức này đòi hỏi sinh viên phải học hành chuyên cần, nghiêm chỉnh.
Những người ham chơi hơn ham học, muốn học giả mà lấy bằng thật thì không thích hợp
với các chương trình này.
Nhà trường triệt để chống tiêu cực, chống gian lận trong thi cử, cấm tặng quà cáp
cho thầy cô giáo. Bất cứ cán bộ nhân viên nào, nếu phạm vào điều cấm kỵ này, đều bị loại
khỏi Trường. Nếu là sinh viên thì phải chịu hình thức kỷ luật nặng nhất.
BẬC HỌC NÀO ?
Với tấm bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông, bạn đã có chiếc chìa khoá để mở cửa vào
lĩnh vực kiến thức sau trung học, cũng tức là kiến thức của bậc Đại học. Lĩnh vực kiến
thức này bao trùm hàng trăm hàng ngàn ngành nghề khác nhau.
Kiến thức sau trung học thường được chia làm 3 cấp độ để đào tạo, ứng với 3 mức thời
gian (và 3 loại trường):
- 2 năm: Trung cấp chuyên nghiệp hay Cao đẳng cộng đồng
- 3 năm: Cao đẳng
- 4 năm: Đại học
Chia ra 3 cấp độ đào tạo là để tạo cơ hội học tập thuận tiện cho người học. Chỉ cần 2 năm là đã
có một nghề trong tay để lập thân lập nghiệp. Có việc làm và thu nhập rồi thì dễ dàng bổ sung
kiến thức (học liên thông) để đạt cấp độ cao hơn.
Thanh niên nước ta thường có tâm lý “sính đại học”, tưởng chừng như chỉ có bằng đại học
mới tìm được chỗ đứng trong xã hội. Đó là một nhận thức sai lầm. Bất cứ xã hội nào, kể cả
các xã hội có nền kinh tế tiên tiến như Âu Mỹ, cũng cần đến trình độ Sơ cấp, Trung cấp,
Cao đẳng nhiều hơn trình độ Đại học. Một chuyên viên kế toán, một chuyên viên thương
mại, một chuyên viên máy tính chỉ cần đạt đến trình độ Trung cấp, Cao đẳng là đủ thành
thạo để đảm đương công việc rồi. Một doanh nghiệp nhỏ không cần đến một Cử nhân kế
toán để đảm nhiệm chức vụ Kế toán trưởng. Một chuyên viên kế toán trình độ Trung cấp,
Cao đẳng là đủ. Xác định như vậy rồi thì chẳng còn gì phải băn khoăn về bậc học. Bậc học
nào cũng thành nghề, miễn là học hành cho nghiêm chỉnh.